Sản phẩm

Cung cấp các sản phẩm phòng chống côn trùng tốt nhất, thân thiện với môi trường: diệt muồi, muỗi, kiến, gián, ... more »

Dịch vụ

Cung cấp các dịch vụ phòng chống và xử lý côn trùng tại các công trình, hộ gia đình, nhà hàng, khách sạn cho hiệu quả cao nhất. more »

Đào tạo

Liên tục mở các lớp Bồi dưỡng nghiệp vụ, kỹ năng phòng chống côn trùng. more »

Thông báo mở lớp Bồi dưỡng nghiệp vụ, kỹ năng Phòng chống côn trùng khóa VII


THÔNG BÁO

Mở lớp đào tạo cấp chứng chỉ về Bồi dưỡng nghiệp vụ,
kỹ năng phòng chống côn trùng Khóa VII
           
Căn cứ Quyết định số 225/QĐ-K2ĐT ngày 08/12/2014 của Cục Khoa học công nghệ và Đào tạo, Bộ Y tế về việc cấp mã cơ sở đào tạo liên tục cho Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương. Trung tâm Phòng chống côn trùng trực thuộc Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương Thông báo mở lớp “Bồi dưỡng Nghiệp vụ, kỹ năng phòng chống côn trùng” Khóa VII, cụ thể như sau:

1. Đối tượng: Những người có nhu cầu được đào tạo nghiệp vụ, kỹ năng phòng chống và xử lý côn trùng gây bệnh, gây hại.

2. Hình thức, thời gian, địa điểm và nội dung:
- Thời gian: Từ 18/8/2016 đến 01/9/2016
- Địa điểm: Viện sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương
- Địa chỉ: 35 đường Trung Văn, P. Trung Văn, Q. Nam Từ Liêm, TP. Hà Nội.
- Nội dung: Hướng dẫn các biện pháp phòng chống côn trùng, động vật chân đốt gây bệnh, gây hại, hướng dẫn an toàn sử dụng hóa chất (Chương trình chi tiết kèm theo).

3. Lệ phí khóa học: 3.500.000đ (Bằng chữ: Ba triệu năm trăm nghìn đồng).
Nguồn kinh phí: Do học viên và đơn vị có nhu cầu được đào tạo chi trả.

4. Thời hạn và hồ sơ đăng ký:

- Hồ sơ đăng ký gồm có:
        1. Phiếu đăng ký (theo mẫu) hoặc đăng ký trực tuyến;
        2. 02 ảnh 3x4cm (chụp trong vòng 6 tháng gần đây);
        3. 01 bản photo CMND hoặc hộ chiếu
- Hạn cuối cùng để đăng ký: ngày 17/8/2016
- Nơi nhận: P. 118 nhà A, Văn phòng Trung tâm Phòng chống côn trùng, Viện sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ThS. Phạm Thanh Hà (ĐT: 0988843606) hoặc email trungtamphongchongcontrung@gmail.com.

Trân trọng cảm ơn./.

           
      Nơi nhận:
-   Các đơn vị có nhu cầu;
-   Lưu VT, TTPCCT.
GIÁM ĐỐC
(PGS.TS Hồ Đình Trung đã ký)

more »

Thông báo tuyển sinh



TRUNG TÂM PHÒNG CHỐNG CÔN TRÙNG
THÔNG BÁO TUYỂN SINH


- Mở lớp đào tạo Bồi dưỡng nghiệp vụ, kỹ năng phòng chống côn trùng Khóa VII
Trung tâm Phòng chống côn trùng, Viện sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng trung ương thông báo mở lớp đào tạo cấp chứng chỉ nghề về Bồi dưỡng nghiệp vụ, kỹ năng phòng chống côn trùng Khóa VII (18/8/2016 - 01/9/2016).

- Mở lớp đào tạo Bồi dưỡng nghiệp vụ, kỹ năng phòng chống côn trùng Khóa V
Trung tâm Phòng chống côn trùng, Viện sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng trung ương thông báo mở lớp đào tạo cấp chứng chỉ nghề về Bồi dưỡng nghiệp vụ, kỹ năng phòng chống côn trùng Khóa V (29/2/2016).


- Mở lớp đào tạo Bồi dưỡng nghiệp vụ, kỹ năng phòng chống côn trùng Khóa IV/2015
Trung tâm Phòng chống côn trùng, Viện sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng trung ương thông báo mở lớp đào tạo cấp chứng chỉ nghề về Bồi dưỡng nghiệp vụ, kỹ năng phòng chống côn trùng Khóa IV/2015 (09/11/2015 - 21/11/2015).

- Mở lớp đào tạo Bồi dưỡng nghiệp vụ, kỹ năng phòng chống côn trùng Khóa III/2015
Trung tâm Phòng chống côn trùng, Viện sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng trung ương thông báo mở lớp đào tạo cấp chứng chỉ nghề về Bồi dưỡng nghiệp vụ, kỹ năng phòng chống côn trùng Khóa III/2015 (10/8/2015 - 22/8/2015).

- Mở lớp đào tạo Bồi dưỡng nghiệp vụ, kỹ năng phòng chống côn trùng Khóa II/2015
Trung tâm Phòng chống côn trùng, Viện sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng trung ương thông báo mở lớp đào tạo cấp chứng chỉ nghề về Bồi dưỡng nghiệp vụ, kỹ năng phòng chống côn trùng Khóa II/2015 (18/5/2015 - 30/6/2015).
more »

Gián và tác hại của gián

Gián là loài côn trùng có đôi cánh ôm kín lưng, kích thước khác nhau tùy theo loài, có thể dài từ 2 - 3mm đến 80mm, thân có màu nâu sáng hoặc đen và chúng ít khi bay.
 


1. Phân loại gián
Các loại gián nhà thường gặp là gián Mỹ (Periplaneta americana), gián Úc (Periplaneta australasiae), gián Đông Phương (Blatta orientalis), gián có băng vàng, nâu (Supella longipalpa), gián Đức (Blattella germanica).

 


Gián sinh trưởng qua 3 giai đoạn: trứng, thiếu trùng và con trưởng thành. Tùy theo điều kiện nhiệt độ và độ ẩm thích hợp, trứng gián có thể nở thành thiếu trùng sau từ 1 đến 3 tháng. Thiếu trùng hay còn gọi là gián con thường không có cánh và dài chỉ vài milimét. Khi mới nở có màu trắng và đen dần sau vài giờ. Gián con lột xác và lớn lên, phát triển thành gián trưởng thành từ sau vài tháng đến hơn một năm tùy theo loài. Gián trưởng thành có thể có cánh hoặc không có cánh.


Gián nhà thường sống chung với người và gây hại cho con người ở trong nhà tại những vùng có khí hậu nhiệt đới, ôn đới, ấm áp, ẩm thấp, có thức ăn thích hợp. Chúng sống thành đàn và hoạt động mạnh về ban đêm, còn ban ngày tìm nơi tối tăm, ẩm thấp để trú ẩn như ở hố hốc, kẽ tường, kẽ cửa, kẽ tủ, nhà vệ sinh, tủ đựng bát đĩa và đồ ăn, nơi để các thiết bị truyền thanh, truyền hình và các dụng cụ điện; ống nước và rãnh thoát nước, chuồng gia súc... Trong đêm tối, gián thường bò đi tìm thức ăn ở nhà bếp, tủ đựng bát đĩa và thức ăn, nơi thùng rác, cống rãnh thoát nước... Khi ta bật đèn sáng, gián bị hoảng loạn và chạy loạn xạ trên bát đĩa, đồ dùng nấu ăn, nền nhà... để tìm nơi ẩn náu.

Gián là loài côn trùng thuộc loại phàm ăn và ăn tạp vì chúng ăn được tất cả các loại thức ăn của con người, nhưng món “khoái khẩu” nhất đối với chúng là các loại thức ăn có chất bột và đường như sữa, bơ, bánh ngọt, sô cô la... Khi không có thức ăn ngon, gián cũng có khả năng ăn cả bìa gáy sách, tủ đựng đồ đạc và trần nhà có chất bột, thậm chí cả đế giày, tấm lót giày, xác lột và xác chết của chúng, máu tươi, máu khô, phân... và tệ hại hơn nữa là nhấm luôn cả móng chân, móng tay của trẻ em, người ốm, người lớn đang ngủ ngon giấc...


Khi gián phát triển quá nhiều và quá đông đúc, chúng có khả năng di cư đến nơi ở mới bằng cách bò hay bay thành đàn để tìm chỗ sinh sống.


2. Gián và khả năng truyền bệnh
Gián nhà là loại côn trùng có hại cho sinh hoạt hàng ngày và sức khỏe của con người vì chúng có tập tính sống ở những nơi bẩn thỉu, hủy hoại và làm thức ăn bị nhiễm khuẩn, đồng thời có thể gặm nhấm làm hư hỏng một số vật dụng như quần áo, vải vóc, bìa gáy sách vở... Chúng vừa ăn vừa nôn mửa những thức ăn mà chúng đã tiêu hóa một phần và đào thải phân rải rác khắp nơi. Các chất bài tiết, nôn mửa từ miệng gián, các tuyến trên cơ thể của gián có mùi hôi đặc biệt, rất khó chịu và đọng lại rất lâu trên những vật dụng mà nó đã đi qua. Có lẽ bất cứ ai cũng có thể cảm nhận được cái mùi rất đặc trưng của loài gián sống gần gũi và làm phiền hà cho mình, một số người thường bị dị ứng với gián khi có sự tiếp xúc thường xuyên.


Hoạt động của gián nhà là bò, chạy tự do từ nhà này sang nhà khác, từ cống rãnh, vườn tược, hố rác, nhà vệ sinh... rồi vào nhà ở để trú ẩn. Chúng có thể ăn tất cả những chất thải cũng như thức ăn của con người nên thường mang và phát tán mầm bệnh tấn công con người. Gián không phải là tác nhân gây bệnh nhưng nó là trung gian truyền và phát tán một số loại bệnh đã được khẳng định hoặc nghi ngờ vì nó mang mầm bệnh tiêu chảy, kiết lỵ, dịch tả, phong, dịch hạch, thương hàn, virus bại liệt... Ngoài ra, nó còn mang các loại trứng giun đường ruột, gây tác động kích thích dị ứng, ngứa, viêm da, mí mắt và các rối loạn hô hấp khác tùy theo mức độ.


3. Làm thế nào đề phòng, chống gián nhà?
Biện pháp phòng, chống gián nhà quan trọng và cần thiết nhất là cải tạo môi trường sống như thường xuyên dọn dẹp vệ sinh sạch sẽ nhà cửa và làm giảm nơi trú ẩn của chúng. Biện pháp này có thể bị hạn chế đối với những nhà có trẻ nhỏ và động vật nuôi. Ở những căn nhà riêng biệt, việc phòng, chống gián thu được hiệu quả dễ dàng hơn là ở những căn hộ liền kề vì sau khi diệt được gián ở trong nhà, gián ở ngoài nhà có thể bay vào nhà, nơi có nhiệt độ ấm áp. Ở các ống nước, nơi để áo quần, thực phẩm... là chỗ gián thường xuyên trú ẩn.


Trong những ngôi nhà dù rất sạch sẽ cũng có thể có sự hiện diện của loài gián, nhưng ở đây không phải là nơi trú ẩn thường xuyên của chúng vì điều kiện không thích hợp. Khi phát hiện được gián con với các kích thước khác nhau và nhiều tổ trứng gián thì xác định tại nơi đó có ổ phát triển lâu dài của gián. Ổ gián thường tìm thấy ở các kẽ chân tường, kẽ đồ gỗ gia dụng và những nơi trú ẩn tương tự khác. Ban đêm, dùng ánh sáng đèn rọi rất dễ phát hiện được gián nhà. Việc dọn dẹp sạch sẽ, vệ sinh nhà cửa hàng ngày là điều cần thiết; thức ăn cần được đậy kín, để trong tủ lưới hoặc tủ lạnh, đừng cho các mẩu thức ăn thừa hoặc các chất hữu cơ vương vãi trong nhà; thùng chứa rác phải có nắp đậy kín và thường xuyên đổ rác; nền nhà nên chùi khô ráo.


Một vấn đề cũng cần chú ý để khống chế gián xâm nhập vào nhà là kiểm tra các tạp phẩm, khăn trải giường, quần áo bẩn, thùng đựng các vật dụng bằng gỗ, giá sách, tủ, giường... để loại bỏ trứng gián và diệt gián trước khi mang vào nhà. Để làm giảm nơi trú ẩn, nơi đẻ của gián, cần làm khít các mối nối bị hở ở sàn nhà, khe tủ đựng đồ dùng và kẽ cửa; lấp kín các rãnh nước, ống thoát nước, ống dẫn nước uống và đường dây cáp điện...


Sử dụng các loại hóa chất diệt côn trùng phun tồn lưu, phun khí dung, rải hoặc phun dạng bột... để diệt gián gặp không ít khó khăn vì nó có khả năng kháng hóa chất, chỉ sau một vài lần sử dụng, gián tiếp xúc với hóa chất mà không bị chết. Hơn nữa hóa chất diệt có tác dụng xua nên nó sẽ tránh và không tiếp xúc. Có thể dùng mồi bẫy gián có chất dẫn dụ hoặc hóa chất có tác dụng xua đuổi. Vì vậy biện pháp diệt gián bằng hóa chất chỉ là giải pháp tình thế tạm thời, cần thực hiện phối hợp với các biện pháp vệ sinh môi trường, cải thiện điều kiện sạch sẽ nhà ở mới có tác dụng hiệu quả.


Nguồn: http://nimpe.vn/TinChiTiet.aspx?id=218&cat=4
more »

Ruồi và căn bệnh truyền nhiễm

Ruồi là côn trùng thuộc bộ Diptera (theo tiếng Hy Lạp di có nghĩa là "hai" và pteron là "cánh"), chúng có một cặp cánh đơn trên đốt ngực giữa và một cặp bộ phận thăng bằng ở cánh sau, trên đốt ngực cuối. Một số con ruồi không có cánh như trong họ Hippoboscoidea.
 


1. Tập tính của ruồi
Ruồi có 2 nhóm chính là ruồi hút máu và ruồi liếm thức ăn, trong đó chú ý đến ruồi nhà Musca domestica và Musca vicina thuộc nhóm liếm hút thức ăn. 

Chu kỳ phát triển của ruồi gồm 4 giai đoạn: trứng, dòi, nhộng và ruồi trưởng thành. Ruồi thuộc nhóm biến thái hoàn toàn, tương tự như muỗi. 



Thời gian hoàn thành một chu kỳ tùy thuộc nhiệt độ môi trường, từ 6-42 ngày. Tuổi thọ của ruồi nhà 2-3 tuần, cũng có khi ở điều kiện thuận lợi, ruồi nhà có thể sống tới 3 tháng. Ruồi đẻ ở nơi chất hữu cơ phân hủy như phân bón, rác rưởi. Trứng nở thành dòi trong vòng vài giờ. Dòi ở trong phân/rác và chúng cần ôxy của không khí để sống, chúng lột xác 3 lần rồi tìm chỗ như đất mùn để chui xuống đó và hình thành nhộng. Giai đoạn nhộng từ 2-10 ngày, phát triển thành ruồi non trong vỏ nhộng, rồi mở/xé bao nhộng để chui ra ngoài thành ruồi trưởng thành. Ruồi trưởng thành màu xám, dài 6-9mm, có 4 sọc đen kéo dài trên lưng của các đốt ngực. Chỉ sau vài ngày ruồi có thể đẻ trứng, mỗi ruồi cái có thể đẻ 5 lần và mỗi lần có thể đẻ tới 120-130 trứng.

Ruồi đực và ruồi cái đều ăn tất cả các loại thức ăn như thực phẩm và chất thải của người, động vật, đặc biệt là các chất thải có mang mầm bệnh truyền nhiễm như đờm, dãi, chất nôn, phân, máu, tổ chức hoại tử... Cấu tạo mồm ruồi thích nghi với liếm hút thức ăn, mồm ruồi có cấu tạo như đế giày, chúng vừa liếm, vừa hút thức ăn dạng lỏng (nếu thức ăn khô sẽ bị hóa lỏng bởi nước bọt của ruồi). Mỗi ngày ruồi ăn ít nhất 2-3 lần nhưng có thể nhiều hơn nếu chúng chưa no. Ruồi nếu thiếu nước uống chỉ sống được 48 giờ. Điều cần lưu ý là ruồi vừa ăn, vừa nôn, vừa thải ra thức ăn và trong chất nôn/phân có thể chứa nhiều mầm bệnh, đó là chưa kể những mầm bệnh bám trên cơ thể ruồi mà chúng vận chuyển từ chỗ này sang chỗ khác, chúng được gọi là môi giới truyền bệnh.

Ruồi kiếm thức ăn ban ngày, trường hợp đặc biệt, ruồi đói có thể kiếm ăn cả ban đêm khi có đèn. Khi không kiếm ăn hay ban đêm, ruồi thường đậu nghỉ nơi khuất gió như sàn nhà, trần nhà, tường nhà, bờ rào, dây phơi, dây điện, thảm cỏ, bụi cây...

Như vậy, do tập tính của ruồi là liếm hút thức ăn bao gồm thực phẩm và các chất thải mang mầm bệnh nên chúng sẽ vận chuyển mầm bệnh từ người bệnh sang người lành và mang mầm bệnh từ môi trường vào cơ thể con người thông qua thức ăn, nước uống. Do cơ thể ruồi có rất nhiều lông nhỏ có khả năng kết dính các mầm bệnh như virut, vi khuẩn, bào nang đơn bào, các tế bào nấm, trứng giun sán. Đặc biệt các mầm bệnh này bị ruồi nuốt vào bụng vẫn còn nguyên khả năng gây bệnh và thời gian tồn tại còn được kéo dài hơn khi ở môi trường. Khi ruồi đậu vào thức ăn, chất thải của chúng bao gồm phân và chất nôn sẽ làm ô nhiễm thức ăn của người cộng với những mầm bệnh mang theo trên chân, cánh, mồm cũng được bôi bẩn vào thức ăn.

2. Ruồi truyền bệnh gì?
Các bệnh mà ruồi đóng vai trò lây nhiễm bao gồm bệnh qua đường tiêu hóa như lỵ trực trùng, lỵ amíp , tả, thương hàn, giun đũa, giun tóc, ấu trùng sán lợn; bệnh về mắt như mắt hột, nhiễm khuẩn mắt, bệnh giun mắt Thelazia; bệnh ngoài da như viêm da cấp tính, nấm da, bệnh phong (hủi).
Quả thực, những vị khách bất đắc dĩ này sẽ gây quá nhiều phiền toái cho chúng ta và chính chúng làm cho bữa tiệc kém hấp dẫn và còn gây hậu quả nghiêm trọng thậm chí truyền dịch bệnh nguy hiểm như dịch tả.

3. Phòng chống ruồi bằng cách nào?
Để có được bữa ăn an toàn, ngon miệng và tránh dịch bệnh theo đường tiêu hóa do ruồi truyền, chúng ta cần tích cực phòng chống ruồi bằng sử dụng các biện pháp sau:


a) Cải thiện vệ sinh môi trường:
- Làm giảm hoặc loại trừ nơi đẻ trứng của ruồi bằng cách vệ sinh chuồng trại gia súc, gia cầm, quản lý phân và chất thải con người, xử lý rác thải tốt.
- Làm giảm nguồn thu hút ruồi từ nơi khác đến như mùi của thức ăn, mùi của các ổ đẻ của ruồi.
- Đề phòng sự tiếp xúc của ruồi và mầm bệnh như hố xí, người ốm và chất thải của họ, lò mổ, động vật chết...
- Bảo vệ không cho ruồi tiếp xúc với thức ăn, vệ sinh nhà ăn...
 

b) Diệt ruồi:
- Phương pháp vật lý như đập ruồi, bẫy ruồi bằng bẫy đèn, bẫy dính, bẫy nước, lưới điện...
- Phương pháp hóa học như bả ruồi, phun thuốc diệt ruồi trưởng thành hay diệt dòi.


Nguồn: Trích từ Sức khoẻ & Đời sống
more »

Muỗi là loài cực kỳ nguy hiểm trên Trái đất

Muỗi không chỉ gây khó chịu, chúng còn lây lan nhiều căn bệnh chết người. Vì thế, muỗi là một trong những loài nguy hiểm nhất trên Trái đất.




Những loài vật nguy hiểm nhất trên trái đất có thể bị chúng ta giết chết bằng một cái đập tay – nhưng nếu chúng cắn chúng ta, chúng có thể đã khiến chúng ta mắc một căn bệnh chết người.

Những bệnh lây truyền qua muỗi và những loài côn trùng "họ muỗi" giết chết hơn một triệu người mỗi năm và lây nhiễm các loại bệnh cho hơn một tỷ người, gây suy nhược, đau, tổn thương não, mù mắt và các ảnh hưởng nghiêm trọng khác.


Hiện nay, một nửa dân số thế giới bị xem là có nguy cơ cao mắc bệnh lây truyền qua các loài bọ hút máu như bọ ve, rận, muỗi. Nhân hôm nay là ngày Ngày Y tế Thế giới, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã cảnh báo một nguy cơ rất thực tế với khẩu hiệu mạnh mẽ: "Một vết cắn nhỏ, một mối nguy lớn"
Trên toàn cầu, loài vật nguy hiểm nhất mang theo mầm bệnh và gây bệnh truyền nhiễm là muỗi. Sau đây là 11 lý do giải thích vì sao muỗi lại nguy hiểm nhất do trang Business Insider đưa ra:


1. Muỗi khiến 40% dân số thế giới có nguy cơ bị sốt xuất huyết
Sốt xuất huyết khiến người bệnh rất đau, cảm giác như xương bị gãy. Đó là căn bệnh do muỗi gây ra, có tốc độ lây lan nhanh nhất trên thế giới, với 40% dân số thế giới đang đối mặt với nguy cơ. Mỗi năm, có từ 50 đến 100 triệu người bị sốt xuất huyết. Mặc dù thường không gây tử vong, sốt xuất huyết vẫn là một nguyên nhân gây tử vong hàng đầu cho trẻ em ở một số nước Mỹ Latinh và châu Á.

Bệnh cũng có thể phát triển thành xuất huyết nặng, tình trạng xuất huyết đó nguy hiểm hơn rất nhiều, gây chảy máu, suy tạng và nôn mửa liên tục.


Không có thuốc hay vaccine ngừa bệnh sốt xuất huyết. Phương pháp điều trị thường chỉ là cố gắng cho bệnh nhân giữ nước.


2. Muỗi lây lan bệnh sốt vàng da
Mỗi năm có khoảng 200.000 người lây nhiễm bệnh sốt vàng da - và 30.000 tử vong. Đó là một dạng bệnh sốt xuất huyết không có biện pháp điều trị. Sau một thời gian bệnh nặng, hầu hết bệnh nhân hồi phục, nhưng khoảng 15% bị biến chứng độc hại, bắt đầu bị chảy máu trong và rối loạn các cơ quan nội tạng. Khoảng một nửa số bệnh nhân bị biến chứng tử vong.


Các ca bệnh sốt vàng da đã tăng từ những năm 1980 do khả năng miễn dịch của con người suy giảm, do nạn phá rừng, biến đổi khí hậu, du lịch hàng không gia tăng, và tỷ lệ lây nhiễm cao hơn ở các thành phố do một giống muỗi gọi là muỗi Aedes aegypti.

Tuy nhiên, có vaccine phòng bệnh hữu hiệu cho bệnh này – với một liều duy nhất sẽ cung cấp miễn dịch suốt đời. Nhiều quốc gia không cho phép khách du lịch nhập cảnh nếu chưa tiêm phòng.


3. Muỗi gây ra bệnh sốt chikungunya
Sốt chikungunya là bệnh do virus chikungunya lây nhiễm qua trung gian của muỗi truyền bệnh. Bệnh tồn tại trên thế giới từ nhiều thế kỷ rồi, nhưng chỉ mới xuất hiện ở châu Mỹ lần đầu tiên vào cuối năm 2013.
 


Tên của bệnh xuất phát từ một từ trong ngôn ngữ Tanzania, có nghĩa là "méo mó", ý nói căn bệnh gây ra các cơn đau khớp nặng, kéo dài trong nhiều tuần, và trong một số trường hợp có thể kéo dài hàng tháng, hàng năm.


"Tôi đã ở châu Phi và chứng khiến trẻ em la hét hàng ngày dài vì đau đớn do bệnh chikungunya," cố vấn kỹ thuật Joe Conlon của Hiệp hội kiểm soát Muỗi tại Mỹ nói.


Con người có rất ít khả năng miễn dịch tự nhiên đối với bệnh chikungunya, vì thế muỗi có thể lây lan virus chikungunya rất nhanh chóng trên toàn dân số. Năm 2005, một đợt bùng phát bệnh chikungunya tại đảo La Reunión (Pháp) đã gây bệnh cho 200.000 trong số 750.000 cư dân tại đây, mặc dù loài muỗi trên đảo là Muỗi Hổ châu Á (Asian Tiger Mosquitoes) không có khả năng lây lan virus chikungunya. Tuy nhiên, các chuyên gia nhận ra loài muỗi này đã biến đổi và có khả năng lây bệnh.


4. Muỗi biến trường hợp cá biệt thành dịch bệnh
Bất kỳ người nào nhiễm bệnh lây truyền qua muỗi đều có thể mang nó đến một quốc gia khác, và gây ra dịch bệnh nếu họ bị một con muỗi khác cắn – điều này xảy ra rất thường xuyên.
Năm 2007, một người đàn ông Italia trở về nhà từ Ấn Độ, vô tình bị một con muỗi mang virus chikungunya cắn. Khi trở về nhà, ông tới thăm một người anh em họ - và trong vòng 3 tháng, hơn 200 người đã bị nhiễm bệnh.


5. Muỗi khiến con người cũng mắc các căn bệnh gia cầm
Mặc dù loài virus West Nile chỉ có trên các loài chim, song con người cũng có thể mắc virus này - thường là từ con muỗi đã cắn vào con chim. Hầu hết mọi người không có triệu chứng gì, nhưng có 20% người bị sốt - kèm theo nhức đầu, đau nhức cơ thể, đau khớp, nôn, tiêu chảy, hoặc phát ban.


Trong 150 ca nhiễm bệnh, có khoảng 1 ca tiến triển nặng thêm thành viêm não West Nile hoặc viêm màng não West Nile, cả hai đều có khả năng gây tử vong. Ngựa cũng có thể bị bệnh do virus West Nile gây ra. nhưng dù là ngựa hay người đều có thể lan thành dịch bệnh. Và trong khi có vaccine chủng ngừa bệnh này cho ngựa, lại không hề có vaccine cho con người.


6. Muỗi không công bằng chút nào, một số người hay bị muỗi đốt hơn những người khác?
Một số người thực sự là nam cham hút muỗi. Muỗi bị hấp dẫn bởi mùi phát ra từ các vi khuẩn sống trên da con người, và một số người toả ra mùi khiến họ đặc biệt hấp dẫn các loài bọ hút máu. Trái với những gì nhiều người nói, ăn tỏi hay sử dụng thuốc chống muỗi tự nhiên đều không hiệu quả.


7. Muỗi lây lan cơn sốt Rift Valley, có thể gây mù mắt
Bệnh sốt Rift Valley chủ yếu ảnh hưởng đến động vật, nhưng muỗi có thể lây nhiễm bệnh này cho con người, và nó có những triệu chứng rất khủng khiếp.


Một số người không xuất hiện các triệu chứng. Nhưng những ai có triệu chứng, ban đầu họ sẽ cảm giác như bị cúm, sau đó một số bị cứng cổ và khó chịu với ánh sáng. Một số lượng nhỏ (chưa đến 2%) có thể mắc các tổn thương ở mắt khiến họ bị mù, trong khi những người khác (cũng ít hơn 2%) bệnh có thể phát triển thành một dạng bệnh não, có khả năng tử vong hoặc sốt xuất huyết.
Do bệnh sốt Rift Valley chủ yếu ảnh hưởng đến động vật, nên nó có thể khiến ngành nông nghiệp và nền kinh tế lao đao.


8. Muỗi có thể khiến người bệnh tàn tật vĩnh viễn
Bệnh giun chỉ bạch huyết, một chứng bệnh nhiệt đới hầu như đã bị lãng quên, là một nguyên nhân hàng đầu của các thương tật vĩnh viễn cho người dân trên toàn thế giới.
Hiện nay, có hơn 120 triệu người bị nhiễm bệnh này, và khoảng một phần ba trong số này đang bị biến dạng, mất năng lực vì bệnh.


Muỗi lây lan ký sinh trùng giữa con người, sau đó thâm nhập vào hệ thống bạch huyết và sinh sôi nảy nở trong khoảng thời gian 6-8 năm. Chúng có thể làm hỏng hệ thống miễn dịch và thận, sau này có thể gây sưng đau ở cánh tay, chân, và bộ phận sinh dục.


9. Muỗi truyền các bệnh tử vong cho trẻ em
Mặc dù không lây lan giữa người với người, song bệnh viêm não Nhật Bản lại có thể lây từ động vật sang người do muỗi. Bệnh này giết chết khoảng 10.000 người mỗi năm, chủ yếu là trẻ em dưới 5 tuổi. Mặc dù không có phương pháp điều trị song viêm não Nhật Bạn đã có vaccine phòng bệnh hiệu quả.


10. Muỗi lây lan bệnh sốt rét khiến hàng trăm ngàn người tử vong mỗi năm
Từ năm 2000 đến 2012, tỷ lệ tử vong do bệnh sốt rét đã giảm đáng kể - 42% trên toàn cầu. Mặc dù vậy, ước tính riêng trong năm 2012 đã có khoảng 627.000 người chết vì bệnh sốt rét và khoảng 207 triệu người mắc bệnh.


Muỗi cái Anopheles truyền ký sinh trùng Plasmodium trong vết cắn của chúng, sau đó gây sốt cao, ớn lạnh, và triệu chứng như bị cúm nặng, có thể gây tử vong nếu không được điều trị. Bệnh có thể phòng ngừa bằng cách mắc màn ngủ, thuốc chống côn trùng, mặc áo dài tay, và có thể điều trị, nhưng nó vẫn khiến nhiều người tử vong.


11. Muỗi rất khó tiêu diệt hoàn toàn
Nên nhớ, loài muỗi là loài thuộc lớp côn trùng và đã hiện diện trên Trái đất từ 170 năm nay, rất khó để tiêu diệt chúng một cách tận gốc. Muỗi không cần nhiều điều kiện để sống. Bất kỳ dụng cụ chứa nước nhỏ - hoặc bất cứ cái gì có thể hứng nước mưa – đều đủ để muỗi sinh sản. Muỗi cũng đang trở nên kháng thuốc với các thuốc diệt thông thường.


Muỗi cũng di chuyển rất nhanh chóng. Loài muỗi Hổ châu Á (Asian Tiger Mosquito) có thể gây bệnh sốt vàng da, sốt xuất huyết, và chikungunya, đã lan rộng đến 36 tiểu bang tại Mỹ kể từ khi xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1985.



Nguồn: http://nimpe.vn/TinChiTiet.aspx?id=614&cat=4
more »

Kiến ba khoang và cách phòng tránh


Kiến ba khoang thuộc họ Cánh cụt (Staphylinidae), bộ Cánh cứng (Coleoptera), lớp Côn trùng (Insecta), ngành Chân đốt (Arthropoda).  Trên thế giới đã phát hiện được hơn 46.000 loài, 3.200 giống, 31 phân họ, trong đó 2/3 số loài sống ở vùng nhiệt đới. Các loài trong giống Paederus thường gặp nhất, chúng trông giống kiến, nên dân gian thường gọi là kiến khoang, kiến lác, kiến gạo, kiến cong đít...


1. Đặc điểm của kiến ba khoang
Cơ thể dài 10 – 20 mm, gần hình trụ thon, có các khoang màu nâu đỏ và đen. Đầu màu đen, có hai mắt, một đôi râu gồm 12 đốt gần bằng nhau, một đôi kìm chắc khỏe để bắt mồi, miệng kiểu nghiền
Ngực kiến có 3 đốt, mang 3 đôi chân và 2 đôi cánh; đôi cánh cứng, ngắn cụt ở ngoài, đôi cánh lụa dài gập lại trong cánh cứng, khi bay đôi cánh lụa vươn ra. Bụng kiến gồm 10 đốt, khớp nối giữa đầu, ngực, bụng rất linh hoạt cho nên chúng có thể cong mình lên hay uốn sang hai bên.

Kiến khoang sinh sản quanh năm, chủ yếu vào mùa mưa, khi thời tiết nóng ẩm. Vòng đời của chúng gồm các giai đoạn: trứng - ấu trùng - nhộng - trưởng thành. Kiến đẻ trứng rời rạc từng quả trên đất mùn. 

Ấu trùng và trưởng thành của kiến đều ăn các côn trùng khác bé nhỏ hơn. Do vậy, nó đóng vai trò quan trọng trong đấu tranh sinh học để phòng chống một số côn trùng nơi ruộng lúa (“paddy pests”) và góp phần cân bằng sinh học trong thiên nhiên. Cho nên người ta xếp chúng vào loại côn trùng có lợi. 

Kiến khoang Paederus là loại côn trùng vùng nhiệt đới, khí hậu nóng ẩm. Chúng thường sống ở ven ruộng, trong đống rơm rạ ngoài đồng, bãi cỏ, gần vùng nước, ruộng rau, trong những nơi đang xây dựng dở dang. Chúng thường ẩn náu và sinh sản trong các đống thực vật mục nát có nhiều chất mùn như rơm rạ, cỏ mục, cành cây, dưới đống gạch đá... Ta  có thể thấy kiến ba khoang ở quanh bóng đèn trong các buồng làm việc, buồng ngủ ở ký túc xá, bệnh viện, trường học cạnh đồng ruộng, đồng cỏ, đầm, hồ...

2. Tác hại của kiến ba khoang
Gây viêm da do kiến khoang Paederus: Nhiều nơi trên thế giới đã ghi nhận viêm da do kiến khoang gây ra như ở vùng Volga (Nga), Okinawa (Nhật Bản, 1966), vùng bắc Úc (1996), Trung Phi (1993)…
Ở Việt Nam, năm 1960 đã phát hiện vụ dịch viêm da phỏng nước gồm 31 bệnh nhân được cho là viêm da đồng cỏ nhưng có thể là do viêm da do Paederus (theo Nguyễn Sĩ Quốc và cs.). Năm 1960-1963, phát hiện bệnh này ở 5 đơn vị khác nhau, tỷ lệ mắc bệnh 6,6 - 13,1% (theo Nguyễn Xuân Hiền và cs.). 


Hình. Tổn thương do chất độc pederin của kiến ba khoang

Tại Viện Da liễu Trung ương, bệnh nhân bị viêm da do côn trùng vào các tháng 7, 8, 9, 10 hàng năm đã gia tăng, trùng với mùa phát triển của kiến ba khoang.


Năm 2006, hàng trăm sinh viên ở ký túc xá trường Cao đẳng Sư phạm mẫu giáo Trung ương 3 (thành phố Hồ Chí Minh) phải đi khám bệnh vì bị viêm da dị ứng, kết quả xác định tổn thương da hàng loạt là do Paederus.


Kiến khoang không đốt người vì phần phụ miệng kiểu nghiền và đuôi không có bộ phận chích hút, nhưng trong cơ thể côn trùng này có chứa độc tố (trừ cánh); khi bị dập nát, độc tố trong cơ thể kiến dây lên da gây hiện tượng phồng rát và viêm da.


Người ta đã chiết xuất từ loài kiến khoang Paederus fuscipes chất pederine (độc gấp 12 lần nọc độc rắn hổ mang) có thể gây cháy, bỏng da giống như chất cantharidin của sâu ban miêu và chất phospho ở con giời leo.


3. Phòng chống kiến ba khoang
Khi làm việc dưới ánh đèn, tránh phản xạ quệt tay khi có cảm giác côn trùng rơi vào cổ, mặt (khó thực hiện, vì đây là phản xạ...). Buổi tối khi tắm rửa chú ý giũ mạnh khăn mặt trước khi dùng.


Vệ sinh môi trường, xung quanh nơi ở, gom xác cây mục, cỏ khô đem đốt để xua đuổi côn trùng, do tính ưa ánh sáng đèn nên có thể áp dụng đèn huỳnh quang để ngoài cửa để dẫn dụ và tiêu diệt, hốt dọn đem đốt; để các chậu nước dưới bóng đèn để kiến lao vào khi thấy bóng sáng đèn dưới nước.
Nếu nhiều kiến ba khoang cần phun hóa chất diệt: chlorpyrifos + deltamethrin, hiệu quả sau 24 – 48 giờ.


Điều trị (theo Viện Da liễu Trung ương):
Khi bắt đầu thấy rát ở một vùng da có thể rửa vùng đó bằng nước muối, xà phòng... để ngăn không nổi thành phỏng nước, phỏng mủ.
Dùng các dung dịch dịu da, sát khuẩn nhẹ như dung dịch Jarish, oxýt kẽm, mỡ kháng sinh.
Nếu mủ nhiều, đau có thể dùng kháng sinh chung, kháng Histamin tổng hợp, thuốc giảm đau có thể dùng corticoid bôi hoặc đường toàn thân.
Trường hợp nặng cần đến các cơ sở Y tế để điều trị.
  
PGS. TS. Nguyễn Văn Châu
Viện Sốt rét - Ký sinh trùng – Côn trùng Trung ương    
Nguồn: http://nimpe.vn/TinChiTiet.aspx?id=746&cat=4

more »